DÂN SỐ BẾN LỨC
QUA 10 NĂM
TỔNG ĐIỀU TRA
(01/4/ 2009 – 1/4/2019)
Thực hiện Quyết định số 772/QĐ-TTg Ngày 26/6/2018,
Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Đây là cuộc Tổng điều tra dân số lần thứ 5
tại Việt Nam. Mục đích của Tổng điều tra là nhằm thu thập thông tin cơ bản về
dân số và nhà ở trên toàn bộ lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
phục vụ hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và giám sát các
Mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (viết gọn là Tổng điều tra năm
2019) được thực hiện trong bối cảnh đất nước đang trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu
rộng và bước vào cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ và từng bước hướng đến Chính phủ điện tử.
Tổng điều tra năm 2019 là cuộc
Tổng điều tra đầu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn,
đặc biệt là công đoạn thu thập thông tin tại địa bàn với hình thức thu thập
thông tin chủ yếu điều tra bằng phiếu điện tử trên thiết bị di động, chiếm 100% các hộ dân cư.
Thời gian tiến hành điều tra là 25 ngày, từ ngày 01 đến ngày 25/4/2019. Đến ngày 16/8/2019 công tác xử lý và làm sạch số liệu
trên địa huyện cơ bản đã hoàn thành và được nghiệm thu. So với kết quả sơ bộ
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 sớm hơn khoảng một năm. Đó là sự nổ lực
cả Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, sự quyết tâm của BCĐ, sự nổ lực của
ĐTV, Tổ trưởng cùng với sự phối hợp của người dân và nhiều tổ chức cá nhân
trong công tác Tổng điều tra năm 2019.
Cuộc Tổng điều tra năm 2019 trên địa bàn huyện đến khoảng 19 giờ ngày
21/4/2019 đã kết thúc thu thập thông tin tại hộ (sớm hơn 04 ngày so với kế
hoạch của BCĐ Trung ương); xã hoàn thành sơm nhất vào ngày 09/04/2019; và xã về
cuối cùng vào ngày 21/4/2019) với kết quả sơ bộ được BCĐ trung ương công bố
ngày 31/7/2019 tại công văn số 83/BCĐTW-VPBCĐTW như sau:
Tổng số dân của huyện Bến Lức ngày 01/4/2019 là 181.660 người, trong đó dân số nam là 90.725 người (chiếm 49,94%) và dân số nữ là 90.935 người (chiếm 50,06%). Với kết quả này, huyện Bến Lức có số dân đứng thứ 4 so với toàn tỉnh
(Sau Đức Hòa, Cần Giuộc, Cần Đước).
So với Tổng điều tra dân số năm 2009, dân số huyện
Bến Lức tăng 33.039 người (năm 2009 là: 148.621 người), bình quân tăng khoảng 3.303,9 người/năm. Tỷ lệ tăng
dân số bình quân giai đoạn 2009-2019 là 2,02%/năm. Trong đó tỷ lệ tăng dân số
cơ học là 1,49% (2.543 người/năm); giai đoạn 1999 – 2009 tỉ lệ tăng dân số bình
quân là 1,8%/năm)
Tỷ số giới tính là 99,76 nam/100 nữ (năm 2009 là 97,09
nam/100 nữ), trong đó khu vực thành thị là 94,58 nam/100 nữ
(năm 2009 là 85,53nam/100 nữ), khu vực nông thôn là 100,70 nam/100
nữ (năm 2009
là 99,31nam/100 nữ). Tỷ số giới tính tăng liên tục trong những năm qua
nhưng luôn thấp hơn 100nam/100 nữ trên phạm vi toàn huyện.
Năm 2019, mật độ dân số của huyện Bến Lức là 631 người/km2,
tăng 115 người/km2 so với năm
2009. Thị trấn có mật độ dân số cao nhất
so toàn huyện là 3.101 người/km2 (năm 2009 là 2.584 người/km2,
tăng 517 người/km2. Xã có mật độ dân số thấp nhất là xã Tân Hòa là 107 người/km2, (năm 2009 là 91 người/km2, tăng 16 người/km2.
Với vị trí địa lý
thuận lợi, tiếp giáp với Thành Phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế của cả nước;
là cửa ngỏ của miền tây Nam bộ với TP HCM. Với điều kiện thuận lợi trên trong 10 năm qua, huyện Bến Lức đã thực hiện nhiều chính sách thu húc
đầu tư trên địa bàn; quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh tại nhiều địa phương như (Thị trấn Bến Lức, Lương Hòa, Lương
Bình, An Thạnh.v.v…) đã tác động lớn làm gia tăng dân số ở khu vực
thành thị. Dân số khu vực thành thị 2019 là 26.972 người, chiếm 14,84% ; ở khu vực nông thôn là 154.688 người, chiếm 85,16%.
Huyện Bến Lức có 179.911 người thuộc dân tộc Kinh (chiếm 99,04% dân số huyện) và 1.749 người thuộc dân tộc khác như Kmer, Hoa, Tày, Thái.v.v… (chiếm 0,96% tổng dân số của
toàn huyện); Có 166.709 dân số không theo tôn giáo chiếm (chiếm 91,77% dân số
toàn huyện), còn lại 8,23% dân số có tôn giáo (trong đó 2,83% dân số theo phật
giáo, 4,82% dân số là công giáo, 0,11% dân số là tinh lành, 0,33% là cao
đài.v.v…)
Dân số nhóm tuổi từ
0-5 tuổi là 13.502 người (chiếm 7,43% dân số toàn huyện). Trong đó trẻ em nam
là 7.035 trẻ, chiếm 52,11% tổng số trẻ trong độ tuổi; trẻ em nữ là 6.467 trẻ,
chiếm 47,89% số trẻ trong độ tuổi).
Dân số nhóm tuổi
từ 6 – 14 tuổi là 23.827 người (chiếm 13.12% dân số toàn huyện). Trong đó nam
là 12.331 người, chiếm 51,75% trong nhóm tuổi; nữ là 11.496 người, chiếm 48,25%
trong nhóm tuổi)
Dân số nhóm tuổi
từ 15 – 60 tuổi là 125.244 người (chiếm 68,94% dân số toàn huyện). Trong đó nam
là 63.093 người, chiếm 50,37%; nữ là 62.151 người, chiếm 49,63%).
Dân số nhóm tuổi
từ 61 tuổi trở lên là 19.087 người (chiếm 10,51% dân số toàn huyện).
Tính đến thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 toàn
huyện Bến Lức có 52.067 hộ dân cư, tăng 13.900 hộ so với năm 2009.
Trong 10 năm qua huyện Bến Lức đã thực hiện tốt các chính sách về dân số kế
hoạch hóa gia đình, nhiều chính sách giảm sinh và sinh đủ 2 con, số người bình
quân trong một hộ giảm dần trong giai đoạn 2009-2019. Trong đó, năm 2019 bình
quân mỗi hộ dân cư có 3,48 người/hộ (năm 2009 là 3,89 người/hộ) giảm 0,41
người/hộ. Tại khu vực thành thị trung bình mỗi hộ dân cư có 3,25 người/hộ thấp
hơn khu vực nông thôn là 0,28 người/hộ.
Kết quả sơ bộ Tổng điều tra năm 2019 cho thấy,
trải qua 10 năm, quy mô dân số trên toàn huyện với tốc độ tăng hơn so với giai đoạn 10 năm trước (tăng dân số cơ học là tương đối cao so với năm
2009). Trình độ dân trí đã được cải thiện, tỷ lệ dân số từ 15
tuổi trở lên biết đọc biết viết là 97,8% (năm 2009 là 96,7%). Trong đó tỉ lệ dân
số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết chia theo thành thị là 99% (2009 là
97,6%), nông thôn là 97,6% (2009 là 96,5%). Kết quả cho thấy nhiều chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà Nước phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương,
góp phần nâng cao tỉ lệ biết đọc biết viết so với giai đoạn trước;
Trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông đang được
đến trường
tăng dần, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường giảm mạnh. Tỉ lệ dân số 15 tuổi trở
lên chưa bao giờ đến trường là 0,8% (2009 là 2,65%).Trong đó thành thị là 0,4%
(2009 là 1,62%); nông thôn là 0,9% (2009 là 2,84%).
Điều kiện nhà ở của các hộ dân cư đã được cải
thiện rõ rệt đặc biệt ở khu vực thành thị. Hầu hết các hộ dân cư đều có nhà ở
và chủ yếu sống trong các loại nhà kiên cố và bán kiên cố. Tỉ lệ nhà kiên cố và
bán kiên cố là 96,2% (2009 là 85%), tỉ lệ nhà thiếu kiên cố và đơn sơ là 3,8%
(2009 là 15%). Với nhiều chính sách của Đảng và nhà nước, từng bước thay đổi
diện mạo trong kết cấu xây dựng nhà ở của người dân, nhà ở được tốt hơn, đời
sống người dân ngày càng nâng lên.
Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị, sự đoàn kết và nổ lực của tất cả thành viên tham gia xuyên suốt Tổng điều
tra, qua đó cho thấy nhiều chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước
trong thời gian qua đã được thực hiện tốt và có hiệu quả./.