QUA CON SỐ THỐNG KÊ
1.
Số DN đang hoạt động đến 31/12 hàng năm (Doanh nghiệp)
Năm 2014
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Ước TH năm 2018
|
615
|
772
|
838
|
1.023
|
1.150
|
So với năm 2017 số DN đang hoạt động tăng 112,41% và
tăng 148,96% so với năm 2015. Số lượng DN đang hoạt động ngày càng tăng trên địa
bàn huyện. Với nhiều chính sách thu húc đầu tư, sự thay đổi về thủ tục hành
chính, môi trường đầu tư ổn định, thuận lợi đầu tư tại địa phương, góp phần giải
quyết việc làm, tăng thu nhập
2.
Lao động trong
doanh nghiệp (người)
Năm 2014
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Ước TH năm 2018
|
62.081 69.335
73.578 72.408 75.670
Lao động trong
doanh nghiệp với số lượng ngày càng tăng, đáp ứng yêu cầu lao động của các
doanh nghiệp đầu tư tại địa phương. Nguồn lao động dồi dào, ổn định là điều kiện
nhất định để doanh nghiệp an tâm đầu tư. Đảm bảo thu nhập, đời sống của người
lao động, tổng thu nhập bình quân/tháng
của người lao động càng tăng qua các năm 2014 là 5.132.000đ/người/tháng;
đến năm 2017 là 7.473.000đ/người/tháng; năm 2018 là 8.369.000đ/người/tháng;
tăng 12% so với năm 2017 và tăng 63% so với năm 2014. Như vậy, với nhiều chính
sách về cải cách tiền lương hướng đến người lao động, Đảng và nhà nước luôn
quan tâm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, góp phần cải
thiện cuộc sống, thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp.
Nền kinh tế của
huyện phát triển, doanh nghiệp an tâm sản xuất, vốn đầu tư sản xuất kinh doanh
ngày càng tăng qua từng năm:
3.
Vốn đầu tư sản
xuất kinh doanh (tỉ đồng)
Năm 2014
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Ước TH năm 2018
|
|
55.742
|
65.869
|
74.855
|
78.876
|
90.707
|
Năm 2018 Vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp là 90.707 tỉ đồng, tăng 15% vốn so với năm
2017 và tăng 62,7% vốn so với năm 2014. Có thể thấy qua nguồn vốn kinh doanh của
doanh nghiệp đã từng bước thay đổi cơ cấu ngành trong hoạt động doanh nghiệp
trên địa bàn.
4.
Tổng tài sản cố
định và doanh thu tài chính
Qua kết quả điều
tra doanh nghiệp hàng năm luôn biến động theo chiều hướng tăng năm 2014 là
22.613,9 tỉ đồng; 2015 là 27.554,7 tỉ đồng; năm 2016 là 31.202,9 tỉ đồng; năm
2017 là 34.764,2 tỉ đồng và năm 2018 khoảng 41.195 tỉ đồng tăng 18,5% so với
năm 2017 và tăng 82,16% tài sản cố đinh và đầu tư tài chính so với năm 2014.
Hiệu quả đầu tư,
vốn lưu động tăng, tăng tài sản cố định của doanh nghiệp cho thấy nhiều chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước ở địa phương luôn phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương, đáp ứng kịp thời về vốn đầu tư của doanh nghiệp trên địa
bàn.
5.
Lợi nhuận trước
thuế của doanh nghiệp
Lợi nhuận trước
thuế của doanh nghiệp luôn luôn có chiều hướng tăng qua các năm 2014 là 598,2 tỉ đồng; năm 2015 là 2.228,1 tỉ đồng;
năm 2016 là 2.156 tỉ đồng; năm 2017 là 2.263 tỉ đồng và năm 2018 là khoảng
2.500 tỉ đồng. Tỉ suất lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng, năm 2017 tăng
2,7%; năm 2018 là 2.83%.
Bức tranh kinh tế
của huyện Bến Lức qua quá trình Lãnh đạo, điều hành và hoạt động của các cơ sở
kinh té đã từng bước làm thay đổi diện mạo của huyện nhà, mặc dù cùng với kinh
tế cả nước có sự biến động và tác động rất lớn từ các cuộc chiến tranh thương mại
giữa các nước lớn, đã làm không ít thay đổi cách tiếp cận và thay đổi cách thức
hoạt động của các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI để thích ứng
với sự thay đổi từ bên ngoài, từng bước thay đổi diện mạo của huyện nhà, qua đó
Bến Lức có sự chuyển biến rõ nét qua quá trình phát triển kinh tế xã hội của
huyện nhà, là điều kiện tốt để chuẩn bị hướng đến đô thị loại II vào năm 2020.
Ngoài ra, các
chính sách đầu tư, cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của huyện luôn được cải
thiện góp phần vào sự thay đổi bức tranh kinh tế của địa phương, nhà đầu tư an
tâm sản xuất, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, làm giàu cho quê hương./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét